Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

IPB
 
Reply to this topicStart new topic
> TIN LẠ TỪ MỘT HÀNH TINH XA, Hermann Hesse
thanhdnvn
post Mar 14 2005, 12:46 PM
Bài viết #1

Nguyên soái
*******

Nhóm: Chỉ huy
Bài Viết: 843
Gia Nhập: 2-March 05
Đến Từ: Đà Nẵng
Thành Viên Thứ: 2



TIN LẠ TỪ MỘT HÀNH TINH XA

Hermann Hesse
Thái Kim Lan dịch Việt

Tưởng niệm TrươngThanh Tuệ - nhà xuất bản An Tiêm
vừa từ trần ngay 16. 08. 2004

Tại một trong những tỉnh miền nam trên hành tinh đẹp đẽ của chúng ta vừa xảy ra một bất hạnh tàn độc. Một cuộc động đất kèm theo với giông tố bão táp và lụt lội khủng khiếp đã tàn phá ba ngôi làng cùng tất cả vườn tược, ruộng đồng, rừng rậm và cây cối tan hoang. Một số người và súc vật tử nạn, và điều buồn nhất trong mọi bất hạnh là trong vùng không còn đủ số hoa cần thiết để tẩm liệm người chết và trang hoàng tươm tất nơi yên tĩnh cuối cùng của người xấu số.

Dĩ nhiên người ta đã tức thì lo toan tất cả các chuyện khác. Ngay sau giờ phút ghê sợ được loan ra, các sứ giả phân ưu đã vội vàng đi khắp vùng láng giềng, chuyển những lời thăm hỏi thân ái đến mọi người, khắp nơi từ các lầu chuông đã nghe văng vẳng tiếng những người diễn ca hát câu thơ não nuột rung động lòng người, câu thơ dâng lên nữ thần từ bi theo tục lệ từ xưa và người nghe không thể cầm lòng bi lụy. Ngay sau đó các chuyến tàu chở người từ tâm và phát tâm nghĩa hiệp từ các thành phố cũng như các vùng quê tấp nập đến, những lời mời mọc và yêu cầu thân tình đổ dồn đến những kẻ bất hạnh mất hết nhà cửa, sẵn sàng mời họ đến tá túc với bà con, bạn bè, hay người chưa quen trong nhà. Từ mọi nẻo thức ăn và áo quần, ngựa xe, các dụng cụ, đá gỗ và nhiều nhiều thứ khác đều được đưa đến trợ giúp, và trong lúc những người già, đàn bà và trẻ con được những bàn tay cứu trợ an ủi và lịch thiệp dìu đi nơi khác, trong lúc một số người lo rửa ráy, băng bó cẩn thận những người bị thương, và tìm kiếm những người chết dưới đống gạch vụn, những người khác đã bắt tay vào việc dọn dẹp những mái nhà bị sụp đỗ, chống đỡ các bức tường xiêu vẹo với sà ngang và chuẩn bị các thứ cần thiết để xây nhanh nhà mới. Mặc dù thoáng hãi hùng đến từ nỗi bất hạnh kia vẫn còn giăng mắc trong không gian, và từ những người chết còn lảng vảng nỗi đe dọa tang tóc và sự câm lặng đầy kính ngưỡng, người ta vẫn thấy được trên mọi vẻ mặt và giọng nói sự sẵn lòng hoan hỉ cũng như một chút long trọng nhẹ nhàng nào đó; bởi lẽ sự chung lòng ra sức làm việc cũng như niềm tin phấn chấn nên làm những điều cần thiết như thế, đẹp đẽ và đáng biết ơn như thế chảy tràn trong mọi trái tim. Ban đầu, mọi sự còn xảy ra trong rụt rè và lặng lẽ, nhưng liền sau đó đã nghe vẳng lên tiếng nói vui tươi, tiếng hát nhẹ nhàng đệm theo công việc cọng đồng, và như ta có thể tưởng tượng được, trong tất cả những điệu được hát, đứng đầu là hai câu thơ ngụ ngôn cổ truyền: „hạnh phúc thay, giúp được người trong cơn túng quẫn; như khu vườn hạn hạn đang uống cơn mưa đầu tiên, phải chăng trái tim bạn cũng đang uống các nghĩa cử và đền đáp bằng những đóa hoa tri ân?“ Hay câu thơ khác: „Chung sức hàng động là nguồn suối của niềm vui thần thánh.“

Chỉ còn một điều khiếm khuyết duy nhất đáng tha thán lúc bấy giờ là thiếu những bông hoa để tẩm liệm người chết. Thật ra người ta cũng đã dùng hoa và cành lá còn sót lại trong các khu vườn bị tàn phá đem trang hoàng những người chết được tìm thấy trước tiên. Rồi sau đó người ta bắt đầu đi thu nhặt tất cả bông hoa có thể có được từ các nơi láng giềng. Nhưng rủi ro làm sao, đây mới là nỗi bất hạnh đặc biệt, chính 3 làng vừa bị tàn phá lại có những khu vườn lớn nhất và đẹp nhất trồng các loài hoa theo từng mùa. Mỗi năm dân chúng thường nô nức đến các làng hoa này để ngắm hoa thủy tiên và hoa mùa xuân (Krokus), không nơi đâu sánh bằng, những làng này có nhiều hoa đến mắt nhìn không xuể, cũng như không đâu có nhiều loại hoa được chăm sóc và nhuộm màu tuyệt diệu như thế, thế mà giờ đây tất cả đều bị tàn phá và hư hại. Mọi người đều bối rối không biết làm sao thực hành giới điều của tục lễ dành cho người chết, từ xưa tục lệ đòi mỗi một người chết hay mỗi con thú chết phải được trang hoàng bằng bông hoa của mùa hoa một cách huy hoàng, và cái chết càng độ ngột và bi thảm chừng nào thì đám tang lại càng phải phong phú mỹ lệ hơn lên chừng ấy.

Vị trưởng lão lớn tuổi nhất của tỉnh, người trong số người cứu trợ đầu tiên, đã đánh xe đến ngay chỗ tai nạn, tới nơi lập tức ông bị vây phủ ào ạt với những câu hỏi, những yêu cầu và than vãn đến nỗi ông ta khó mà giữ được sự bình tĩnh và vui tươi. Nhưng tim ông vẫn bền bỉ giữ yên, mắt của ông vẫn nhân hậu và thân thiết, giọng của ông vẫn trong sáng và lịch sự, đôi môi dưới bộ râu bạc không bỏ quên một giây nào nụ cười yên lặng và thiện hảo, nụ cười đúng với phong cách của nhà hiền triết và vị quân sư.

„Các bạn của tôi“, ông nói, „nỗi bất hạnh đã đến với chúng ta, nhưng tôi nghĩ, nỗi bất hạnh này là sự thử thách mà các vị thần muốn thẩm xét chúng ta. Chúng ta có thể xây dựng lại ngay tất cả những gì ở đây đã bị hủy diệt và trao lại cho người anh em của chúng ta, tôi cám ơn thần thánh cho tôi trong tuổi hạc khá cao này còn có thể chứng kiến được cảnh tất cả các bạn đã đến đây và đã bỏ dở mọi việc nhà, đến giúp các người anh em của chúng ta như thế này. Nhưng giờ đây chúng ta lấy đâu ra được những bông hoa, để có thể trang hoàng tất cả các người chết thật đẹp đẽ và đường hoàng cho buổi lễ hóa thân của họ? Bởi vì bao lâu chúng ta còn ở đây và còn sống, chúng ta không nỡ lòng nào để xảy ra sự cố có người, dù chỉ là một người duy nhất trong những kẻ hành hương mệt mỏi này được chôn cất mà không có vòng hoa phúng điếu đúng đắn. Có lẽ đây cũng là ý kiến của các bạn.“

„Vâng“, mọi người đều kêu lên. „đó cũng là ý kiến của chúng tôi“
Vị trưởng lão nói với giọng của người từ phụ: „Thưa các bạn, bây giờ tôi muốn nói chúng ta phải làm gì. Chúng ta phải đem tất cả những người đã tàn sức nọ mà hôm nay chúng ta không có thể chôn họ được lên tận trên đền thờ mùa hạ trong dãy núi, ở đó tuyết chưa tan. Như thế thi thể họ được an toàn và sẽ không bị biến đổi cho đến khi chúng ta tìm được những bông hoa cúng họ. Nhưng bởi vì hiện nay chỉ có MỘT NGƯỜI trong mùa này có thể giúp chúng ta có được nhiều bông hoa. Người đó là nhà vua chứ không ai khác. Bởi thế chúng ta phải gửi một người trong chúng ta đến nhà vua xin vua giúp sức.“
Và mọi người đều gật đầu biểu đồng tình: „phải! phải! đến xin vua!“.
Vị trưởng lão tiếp lời: „Như thế đấy!“ và mỗi người đều vui sướng nhìn thấy nụ cười đẹp đẽ của ông lấp lánh dưới chòm râu. „nhưng chúng ta nên gửi người nào đến nhà vua đây? Người ấy phải trẻ trung và cường tráng, bởi vì đường đến đó xa xôi, và chúng ta phải dành cho anh ta con ngựa tốt nhất của chúng ta. Nhưng anh ta cũng phải đẹp trai, có lòng tốt và ánh mắt sáng ngời làm cho trái tim của nhà vua không cưỡng lại nổi. Anh ta không cần tốn nhiều lời, nhưng đôi mắt phải có thể nói thay lời. Thật tình có lẽ tốt nhất là gửi một đứa bé đến, đứa bé đẹp nhất của vùng chúng ta, nhưng làm thế nào một đứa trẻ có thể đi một chuyến du hành xa đến thế được. Các bạn phải giúp tôi, các bạn ạ, và nếu có người nào đó muốn lãnh sứ mạng này, hay nếu có ai quen hoặc biết người nào, tôi yêu cầu hãy cho biết điều ấy.“
Vị trưởng lão ngưng lời, nhìn quanh mình với đôi mắt tinh anh của ông, nhưng chẳng có ai tiến lên và cũng không có tiếng người báo hiệu.
Khi ông ta nhắc lại câu hỏi thêm lần nữa và đến lần thứ ba, lúc ấy có một chàng trai chen ra khỏi đám đông tiến đến gần ông, một chàng trai 16 tuổi nhưng dáng dấp còn vẻ một chú trai nhỏ. Chàng ta đưa mắt nhìn xuống đất, mặt đỏ bừng khi cất tiếng chào người trưởng lão.
Vị trưởng lão nhìn anh ta chăm chú và trong nháy mắt, ông nhận ra ngay đây là người sứ giả đích thực. Nhưng ông ta mĩm cười và nói: „hay quá, con muốn làm vị sứ giả cho chúng ta. Nhưng cớ sao trong số nhiều người như thế này mà con lại là người đứng ra nhận lãnh chuyện này vậy?.“
Lúc ấy chàng trai ngước mắt nhìn người trưởng thượng và nói: „Nếu không có người nào khác muốn đi, xin ngài hãy cho tôi đi.“
Trong đám đông có người kêu lên: „Trưởng lão! Ngài hãy gửi chàng ta đi, chúng tôi biết chàng ta. Chàng ta xuất thân từ làng này và trận động đất đã tàn phá vườn hoa của y, ngôi vườn hoa đẹp nhất trong vùng chúng tôi đấy.“
Vị trưởng lão thân ái nhìn sâu vào mắt chàng trai hỏi: „Con buồn tiếc những bông hoa lắm phải không?“
Chàng tuổi trẻ trả lời với giọng rất nhỏ nhẹ: „con rất buồn, nhưng không phải vì thế mà con đến đây tình nguyện xin đi. Con đã có một người bạn thân và cũng có một con ngựa yêu trẻ đẹp, cả hai đều chết trong trận động đất và thi thể còn nằm trong sảnh của chúng ta, cho nên phải tìm cho đủ số hoa để họ được chôn cất.“
Vị trưởng lão đặt hai tay lên đầu chàng trai ban phước lành, ngay sau đó người ta chọn con ngựa tốt nhất cho chàng, chớp mắt chàng nhảy lên lưng ngựa, vỗ vào cổ ngựa và gật đầu tạm biệt mọi người, rồi chàng phi nước đại ra khỏi làng, băng qua những cánh đồng ướt sủng và hoang tàn rồi biến dạng.
Chàng trai mãi miết phóng ngựa suốt cả ngày. Ðể đến kinh đô và vào gặp nhà vua nhanh hơn, chàng chọn con đường băng qua rặng núi, chạy mãi đến chiều, khi trời bắt đầu tối đen, chàng cầm cương dẫn ngựa lần theo một con đường dốc qua cánh rừng và hốc đá.
Một con chim kếch sù màu đen tuyền, trong đời chàng chưa bao giờ thấy một loài chim như thế, bay trước chàng và chàng đi theo chim cho đến khi con chim bay đến đậu trên mái của một ngôi đền nhỏ bỏ ngõ. Chàng trẻ tuổi thả ngựa trong vùng cỏ rừng và đi giữa hai hàng cột gỗ vào trong bệ thờ đơn sơ. Trên bệ thờ bằng đá chàng chỉ thấy dựng một tảng đá kỳ lạ chưa bao giờ thấy ở quanh vùng, trên tảng đá có khắc một biểu tượng dị kỳ của một vị thần mà người sứ giả trẻ chưa hề biết: một trái tim và một con dã điểu đang rỉa trái tim.
Chàng cung kính đảnh lễ vị thần và đặt trên bệ thờ lễ cúng của chàng: một đóa hoa hình chuông màu xanh mà chàng đã hái ở chân núi và dấu trong áo của mình. Sau đó chàng đến nằm trong một góc đền, bởi vì chàng đã mệt nhoài và cần phải ngủ.
Nhưng chàng không tìm được giấc ngủ mọi khi mỗi chiều thường đến ngay bên đệm ngủ của chàng. Ðóa hoa chuông trên tảng đá hay chính tảng đá đen hay cái gì đó khác ngào ngạt tỏa ra một hương thơm lạ lùng, sâu và xoáy đau, trong sảnh đường tối om cái biểu tượng kỳ dị của vị thần lóng lánh một cách ma quái, và trên mái đền con chim đứng lù lù, thỉnh thoảng đập sàn sạt đôi cánh khổng lồ của nó như bão táp rung chuyển rào rào cây cối chung quanh.
Thế nên đến nửa đêm chàng trai nhổm dậy, đi ra khỏi đền và ngước nhìn lên con chim. Con chim đập đôi cánh và nhìn người trai trẻ.
„Tại sao chú mày không ngủ hở?“ con chim hỏi.
Chàng trai trả lời: „tôi không biết“, „Có lẽ tại vì tôi đang buồn khổ.“
„Chú mày buồn khổ nỗi gì?“
„Bạn của tôi và con ngựa yêu của tôi bị tử nạn.“
“Chết lại xấu thế cơ à?“ con chim hỏi lại có vẻ chế diễu
„ồ không, chim lớn ạ, chết không phải là xấu, chết chỉ là một cuộc tạm biệt, nhưng tôi không buồn vì điều ấy.Duy chỉ tệ hại là vì chúng tôi không thể chôn cất bạn của tôi và con ngựa đẹp của tôi được vì chúng tôi không còn hoa nữa.“
„Còn có những điều tệ hại hơn điều ấy nữa“. Con chim nói và bực tức đập đôi cánh sào sạt.
„không chim ạ, chắc chắn không có điều gì tệ hơn điều đó đâu. Kẻ nào được chôn cất mà không có hoa dâng cúng, kẻ đó sẽ bị ngăn chận không được tái sinh theo ước muốn của lòng mình. Còn kẻ nào chôn cất người chết của mình mà không làm lễ hoa cho người chết, kẻ đó sẽ thấy bóng dáng của người chết trong giấc mộng. Chim có thấy không, chính tôi không ngủ được nữa, bởi vì những người chết của tôi đang còn nằm kia không có hoa.“
Con chim ngáy lên khọt khẹt với cái mỏ cong của nó.
„này này chú nhỏ ơi, nếu chú không có kinh nghiệm gì khác hơn điều ấy thì thật chú chưa biết gì về đau khổ cả. Chú chưa bao giờ nghe nói về những xấu xa thậm tệ trên đời sao? Về hận thù, về giết người, về ghen tương?“

Khi nghe những lời này thốt ra từ con chim, chàng trai đã tưởng mình đang nằm mơ. Nhưng rồi chàng sực nhớ và nói một cách khiêm tốn: „Ðúng thế, này chim ơi, tôi nhớ ra rồi; trong các lịch sử cổ và trong các chuyện thần tiên có viết về điều ấy. Nhưng điều ấy thật ra nằm ngoài sự thật, hay có lẽ thuộc về thời xa xưa trên trái đất, khi chưa có hoa trên trần thế và không có các vị thần thiện hảo. Ai mà còn nghĩ đến chuyện ấy nhỉ!“
Con chim cười khẻ với giọng sắc cạnh. Rồi nó vươn mình cao lên hẳn và nói với chàng trai:
„Và bây giời chú mày muốn đi đến nhà vua và ta phải chỉ đường đến đó cho chú mày phải không?“
Chàng trai kêu lên mừng rỡ:
„Ồ, chim đã biết điều ấy rồi sao, vâng, nếu chim muốn, thì tôi yêu cầu chim dẫn đường cho tôi đi.“
Không một tiếng động con chim bay sà xuống đứng trên mặt đất, giang rộng đôi cánh của nó nhẹ ru và ra lệnh chàng trai hãy để con ngựa lại đó và cùng nó đi đến nhà vua.
Chàng sứ giả của nhà vua bèn ngồi lên lưng chim và cỡi chim bay đi.
„hãy nhắm mắt lại!“ con chim ra lệnh và chàng trai tuân lời. Họ bay qua bóng đêm của bầu trời, êm ru và mềm mại như đường bay vịt trời, chỉ có gió lạnh phần phật thổi qua tai của chàng sứ giả. Và họ bay, bay mãi suốt cả đêm trường.
Vào buổi sớm mai, nghe gió bên tai lặng lờ, chim và người dừng lại và con chim kêu lên: „hãy mở mắt ra!“ Chàng trai trẻ mở choàng mắt. Lúc ấy chàng thấy mình đang đứng nơi ven bờ một khu rừng và dưới chân chàng, trong tia sáng ban mai đầu tiên, một đồng bằng đang lấp lánh đàng xa, ánh sáng chói lóa cả mắt chàng.
„Ở đây trong khu rừng này chú mày sẽ tìm thấy lại ta“ con chim kêu lên. Nó vụt phóng mình lên cao như một mũi tên và chẳng bao lâu mất hút trong khoảng cao xanh.



Chàng trai càng lúc càng cảm thấy lạ lùng kỳ dị khi rời khu rừng đi lần vào trong đồng bằng thênh thang. Quanh chàng tất cả đều đổi thay và biến đổi đến nỗi chàng không biết mình đang tĩnh hay đang mơ. Những cánh đồng cỏ và cây cối trông giống như ở quê nhà và mặt trời chiếu sáng, và gió đùa trong đám cỏ đang nở hoa, nhưng chẳng thấy cả người lẫn vật đâu cả mà cũng nỏ thấy nhà cửa vườn tược, ở đây có vẻ như vừa có một cuộc động đất xảy ra tợ nhu ở quê nhà của chàng trai trẻ; bởi vì những đống gạch vụn của các dinh thự, những cành cây gãy và những cây bị đánh ngã, những hàng rào bị tàn phá và những dụng cụ nhà nghề bị mất nằm vương vãi đó đây trên mặt đất, và thình lình chàng thấy đàng kia, ngay chính giữa cánh đồng, một người chết, không được tẩm liệm và thây đang ở trong thời kỳ thối rữa. Trước cảnh tượng ấy chàng trai cảm thấy kinh hoàng mãnh liệt và một thoáng kinh tởm trào trong cổ họng, bởi vì chưa bao giờ chàng đã chứng kiến cảnh tượng như thế. Mặt của người chết đã không được đắp lấy một mảnh khăn nào, hình như đã bị lũ chim và sự thối rữa tàn phá. Chàng trai vừa ngoảnh mặt không dám nhìn vừa mang những lá xanh và một vài bông hoa đến phủ lên mặt của người chết.
Một mùi hôi ghê tởm khôn tả làm cho tim thắc lại lan tỏa nồng nặc và dai dẳng trên khắp đồng bằng. Trong cỏ lại thấy một thây chết bị đám quạ vây quanh và một con ngựa không đầu, xương cốt của người hay vật, và mọi thứ đều bị bỏ rơi nằm đó phơi dưới mặt trời, không ai nghĩ đến buổi lễ hoa hay tẫm liệm.
Chàng trai thảng thốt nghĩ, e một tai họa không thể lường được đã giết chết tất cả mỗi sinh vật và mỗi người và thây chết nhiều đến nỗi chàng ta phải ngưng không đi bẻ hoa cho họ và phủ mặt nữa. Run sợ chàng tiếp tục đi với đôi mắt nửa nhắm. Từ mọi phía toát lên mùi thây rửa và mùi máu và từ hàng nghìn chỗ gạch đá đỗ nát và nhà quàng xác người, cảnh khốn cùng và khổ đau như một ngọn sóng càng lúc càng ồ ạt tràn ngập khắp nơi. Người sứ giả tưởng như mình đang bị lưu giữ trong một giấc mơ dữ và cảm nhận trong đó lời khuyến cáo của các thiên thần, bởi vì những người chết của chàng còn chưa có cuộc lễ hoa và chưa được chôn cất. Lúc ấy chàng sực nhớ dến điều mà con chim tối hôm nay đã nói trên mái đền thờ, và chàng tưởng như nghe lại giọng nói sắc sảo của con chim vang lên: „Có nhiều thứ còn tệ hại xấu xa hơn nữa.“
Bấy giờ chàng nhận ra được rằng con chim đã mang chàng đến một hành tinh khác, rằng tất cả những gì mà mắt chàng thấy đều là sự thật và chân lý cả. Chàng nhớ lại cảm giác của mình thời còn là một chú trai nhỏ những lần nghe kể những chuyện cổ tích quái đản của thời nguyên thủy. Chính cái cảm giác ấy giờ đây chàng đang cảm nhận lại: một thứ kinh hãi rợn tóc gáy và đằng sau nỗi kinh hãi ấy là một thứ an ủi thầm lặng mừng rỡ trong tim, bởi vì tất cả những điều đó may sao đã trôi qua vô cùng lâu và xa lắc xa lơ. Hôm nay ở đây tất cả đều như một chuyện cổ tích quái đản, cái thế giới hoàn toàn lạ lùng đầy kinh hoàng, thây chết và đại bàng rỉa thây ma này hình như nô lệ cho những qui luật khó hiểu, chẳng có nghĩa mà cũng không có nhân, những qui luật điên cuồng, theo đó điều ác, điều điên dại, điều xấu xí xảy ra thay cho điều thiện mỹ.
Trong lúc ấy chàng chợt thấy có một người còn sống đang đi trên cánh đồng, một người nông dân hay một kẻ làm thuê, chàng bèn chạy lại và gọi kẻ kia. Nhưng khi chàng lại gần nhìn rõ người ấy, chàng giật mình kinh hãi, tim chàng tràn ngập lòng thương hại, bởi vì người nông dân ấy trông xấu xí đến hãi kinh, hầu như hắn ta không còn là con người đứng dưói mặt trời nữa. Hắn trông giống như một kẻ đã có thói quen chỉ nghĩ đến riêng mình, một người đã có tập quán cho rằng mọi nơi chỉ có điều giả dối, điều xấu xí và xấu xa xảy ra, như một người luôn luôn chỉ sống trong những giấc mơ đầy sợ hãi. Trong mắt và trên toàn gương mặt cũng như cả con người của kẻ ấy chẳng có chút gì vui tươi hay thiện hảo, chẳng có chút gì của sự tri ân và tin cẩn, mỗi đức hạnh đơn giản nhất và hiển nhiên nhất đều khiếm diện nơi con người bất hạnh ấy.
Nhưng chàng trai thu hết mọi can đảm, chàng ta đến gần người nọ với dáng điệu thân thiện, như kẻ đồng bệnh tường lân chàng chào người ấy một cách thân hữu và mĩm cười bắt chuyện với anh ta. Kẻ xấu xí đứng trơ như phỗng, nhìn ngơ ngác ngạc nhiên với đôi mắt mở lớn đục ngầu. Giọng nói của hắn thô kệch và không có âm nhạc như tiếng rống của sinh vật hạ cấp; tuy nhiên hắn không thể cưỡng lại vẻ vui tươi và tin cậy khiêm tốn trong ánh mắt của chàng trai. Và khi hắn ta nhìn sửng chàng trai một lúc, bỗng nhiên trên gương mặt thô tháp và nhăn nheo nở ra một nụ cười hay một nét miệng nhoẻn ra – khá xấu xí, nhưng lại hiền hòa và ngạc nhiên, như nụ cười nhỏ bé đầu tiên của một linh hồn tái sinh vừa trở về từ vùng sâu nhất của trái đất.
„Chú muốn hỏi tôi điều gì?“ người ấy hỏi chàng trai trẻ.
Theo tục lệ của quê hương mình chàng trai đáp: „Bạn ơi, tôi cám ơn bạn và tôi xin bạn cho tôi biết tôi có thể làm gì cho bạn được?“
Khi người nông dân lặng yên, vẻ ngỡ ngàng rồi cười bối rối, chàng sứ giả hỏi tiếp: „Bạn ơi, bạn hãy nói cho tôi hay điều gì đã xảy ra ở đây mà khủng khiếp và kinh hoàng thế kia“, vừa nói chàng vừa chỉ quanh mình.
Người nông dân khó nhọc muốn hiểu chàng trai nói gì và khi chàng ta nhắc lại câu hỏi, hắn bèn nói: „Chú chưa bao giờ thấy điều ấy sao? Ðó là chiến tranh. Ðó là bãi chiến trường.“ Hắn đưa tay chỉ một đống gạch vụn đen ngòm và kêu lên: „Nơi đó là nhà của tôi“, và khi chàng trai lạ nhìn vào đôi mắt vẩn đục của hắn với sự thông cảm nồng nhiệt, hắn hạ thấp mắt và nhìn xuống đất.
Chà ng trai hỏi tiếp: „các người không có vua hay sao?“, khi người nông dân nói có, chàng ta lại hỏi: „Ông ta ở đâu vậy?“. Người nọ đưa tay chỉ về phía bên kia, ở đàng xa tít thấy mờ mờ một căn cứ doanh trại nhỏ. Lúc ấy chàng sứ giả bèn đưa tay để lên trán người kia chào tạm biệt rồi đi tiếp về hướng ấy. Còn người nọ thì đưa hai tay lên rờ trán mình, lắc lắc cái đầu nặng nề của y một cách lo lắng và đứng đó trố mắt dõi theo chàng trai lạ.
Chàng trai mãi miết đi và đi, băng qua tro tàn và khủng khiếp, cho đến khi tiến gần sát doanh trại. Khắp doanh trại có nhiều đàn ông vũ trang đứng canh gác và đi đi lại lại, không ai để ý nhìn chàng trai, chàng chen giữa những người đàn ông, đi qua các lều trại cho đến khi tìm thấy một căn lều to nhất và đẹp nhất, đó là căn lều của ông vua. Chàng ta bèn bước vào.
Trong lều ông vua đang ngồi trên một đệm ngủ tạm thấp đơn sơ, tấm áo choàng nằm bên cạnh, sau lưng ông một tên hầu ngồi chồm hổm trong bóng tối mờ mờ, hắn đã ngủ khèo lúc nào. Ông vua ngồi cúi người đắm mình trong suy tư. Mặt của ông đẹp và buồn, một mớ tóc bạc phất phơ trên vầng trán nhuốm màu nâu sạm, thanh gươm nằm trước mặt trên nền đất.
Chàng trai trẻ lặng lẽ cung kính cúi mình chào hệt như khi chàng chào vị vua của nước chàng. Với hai cánh tay tréo nhau để trên ngực chàng đứng yên chờ đợi cho đến khi vị vua nhìn thấy chàng.
„Ngươi là ai?“, vị vua nghiêm nghị hỏi và nhíu đôi lông mày lại với nhau, nhưng tia nhìn của ông dừng lại nơi nét mặt trinh nguyên và tươi sáng của người mới đến, và chàng trai nhìn ông với vẽ tín cẩn và thân ái chân thành đến nỗi giọng của vị vua bỗng trở nên mềm dịu.
„Ta đã gặp nhà ngươi một lần rồi“ vị vua vừa nói vừa ngẫm nghĩ, „hay là nhà ngươi trông giống một người nào đó mà ta đã gặp trong thời thơ ấu của ta“
Người sứ giả nói: „Thưa hạ thần là một kẻ xa lạ“
„Thế thì đó là một giấc mơ rồi“, ông vua nói giọng nhỏ nhẹ mơ hồ, „nhà ngươi nhắc ta nhớ đến mẫu thân của ta. Này hãy nói cho ta nghe. Hãy kể cho ta nghe.“
Người thiếu niên bắt đầu: „Một con chim đã đưa con đến đây. Trong xứ con vừa có một trận động đất, lúc ấy chúng con muốn chôn cất các người chết, nhưng chúng con không có hoa.“
„Không có hoa hả?“ vị vua bảo.
„Thưa không, không còn một đóa hoa nào nữa. Và có phải thế không, thưa ngài, thật là tệ hại nếu khi người ta phải tẩm liệm một người chết và không thể dâng cúng cho người ấy một lễ rước hoa; bởi vì người ấy nên được bước vào cuộc hóa thân của mình trong lộng lẫy và hân hoan.“
Ðột nhiên chàng trai sực nhớ, ngoài kia còn biết bao người chết chưa được tẩm liệm nằm la liệt trên cánh đồng khủng phiếp, chàng dừng lại, và ông vua nhìn chàng, gật đầu và thở dài khó nhọc.
„ Con định đi đến nhà vua của chúng con để xin ngài thật nhiều hoa“, người sứ giả nói tiếp, „nhưng khi con ở trong cái đền trên núi thì có một con chim bay đến và bảo rằng nó muốn mang con đến nhà vua và nó đã đưa con qua nhiều tầng khí quyển đến ngài. Ồ, thưa nhà vua thân mến, đó là một cái đền thờ vị thần vô danh, trên mái đền có con chim đậu và vị thần ấy đã để một biểu tượng kỳ lạ vô song trên tảng đá thờ: một trái tim và một con dã điểu đang rỉa trái tim. Trong đêm ấy con đã trò chuyện với con chim khổng lồ kia, và mãi đến bây giờ con mới hiểu được những lời của nó, bởi vì nó nói rằng, trên thế gian còn có những khổ đau và tàn ác nhiều hơn con biết. Và bây giờ con ở đây, băng qua cánh đồng lớn đến đây và đã thấy trong giờ phút này vô số khổ đau và bất hạnh, ôi, nhiều nhiều hơn cả những điều khủng khiếp nằm trong các chuyện cổ tích. Thế rồi con đến trình ngài, ô, thưa hoàng thưọng, con xin hỏi ngài con có thể phục vụ được gì cho ngài không?.“
Vị vua, nãy giờ chăm chú ngồi nghe, cố mĩm một nụ cười, nhưng gương mặt đẹp đẽ của ông quá nghiêm trang và quá buồn bã đắng cay đến nỗi ông không còn mĩm cười được nữa.
„Cám ơn con“, ông bảo, „con không phục vụ cho ta được một tí gì cả. Con làm cho ta nhớ đến mẹ của ta, ta cám ơn con điều ấy.“
Chàng trai buồn rầu vì ông vua không thể mĩm cười được nữa. Chàng nói với vị vua:
„Ngài buồn bã quá. Có phải do lỗi của chiến tranh không?“
Vị vua bảo: „Phải“
Chàng trai không thể nhịn được đành tỏ ra vô phép đối với con người đầy nỗi âu lo nhưng - như chàng cảm nhận -, rất cao qúi trước mặt mình và đặt một câu hỏi đường đột:
„Nhưng xin ngài hãy nói cho con biết, và con yêu cầu ngài giải thích tại sao các người lại gây chiến tranh trên hành tinh của các người? Ai là người có lỗi? ngài có một lỗi nào trong đó không?“
Vị vua nhìn sững người sứ giả, ông ta có vẻ không bằng lòng với sự đường đột hỗn xượt của câu chất vấn. Tuy nhiên ông tự thấy yếu đuối, không thể phản chiếu thật lâu cái nhìn đen tối của ông trong cái nhìn sáng rỡ và vô tư của chàng trai.
Vị vua bảo:
„Nhà ngươi còn là một đứa trẻ, và những chuyện kia là những điều mà nhà người không thể hiểu được. Chiến tranh không là lỗi của ai cả, nó tự đến như bão táp và sấm chớp, và tất cả chúng ta, những người phải chiến đấu chiến tranh, không phải là kẻ gây nên nó, mà là nạn nhân của nó.“
„Như thế thì các người chết rất dễ dàng phỏng?“ Chàng trai hỏi, „ở xứ chúng tôi, người ta cũng không sợ cái chết lắm đâu, và phần đông đi một cách tự nguyện và nhiều người đi một cách vui vẻ vào sự hóa thân đổi kiếp: nhưng không bao giờ có thể có một người nào dám cả gan giết một người khác. Trên hành tinh của quí ngài xem ra khác hẳn.“
Vị vua lắc đầu.
„Bên chúng ta không phải hiếm chuyện giết người“, ông bảo, „nhưng chúng ta xem giết người là tội ác trầm trọng. Chỉ duy trong chiến tranh thì được phép giết người, bởi vì trong chiến tranh không ai giết người vì thù ghét hay ganh tương theo quyền lợi riêng cho mình cả, mà tất cả làm điều đó vì cọng đồng đòi hỏi họ phải giết người. Nhưng sẽ là một sai lầm, nếu nhà ngươi tưởng họ chết dễ dàng. Nếu nhà ngươi nhìn kỹ những gương mặt các người chết của chúng ta, nhà người có thể thấy điều đó. Họ chết khó nhọc, họ chết khó khăn và miễn cưỡng.“

Chàng trai trẻ lắng nghe những lời ấy, ngạc nhiên về nỗi buồn bã và khó khăn của cuộc sống mà những người trên hành tinh này đang sống. Chàng còn muốn đặt thêm nhiều câu hỏi nữa, nhưng lại tiên cảm rõ rệt là sẽ không bao giờ hiểu được hết mọi dính líu chằng chịt giữa những điều đen tối và dễ sợ ấy, vâng, chàng cũng cảm thấy trong tâm không có đủ ý chí để hiểu chúng. Hoặc là những sinh linh đáng ta thán này thuộc về một tầng trật tự thấp kém, không có những vị thần sáng suốt và bị các ma quỉ điều khiển hay là trên hành tinh này có một rủi ro riêng, một lỗi lầm và sai lầm đang chế ngự. Chàng thấy ngượng ngùng và tàn nhẫn, nếu tiếp tục chất vấn, bắt buộc ông vua phải trả lời và thú nhận, mà mỗi câu trả lời hay mỗi thú nhận chỉ có thể là đắng cay và hạ nhục mà thôi. Những con người này đã sống u minh trong sự sợ hãi cái chết, nhưng lại đi đến đánh chết nhau hàng loạt như thế, trên mặt những con người này để lộ rõ tính thô thiển không xứng đáng như nét mặt của người nông dân, hay hằn lên của nỗi tang tóc buồn bã sâu xa và khủng khiếp như nét mặt của ông vua. Họ vừa làm cho chàng thấy thương hại nhưng họ cũng là những thực thể lạ lùng, hầu như buồn cười, buồn cười và điên khùng một cách vừa gây cảm động vừa gây hổ thẹn.
Nhưng có một câu hỏi chàng không thể bỏ qua. Nếu những sinh linh khốn khổ này là những kẻ bị bỏ lại, những đứa con đến trể của một hành tinh chậm trể, vô hoà bình, nếu cuộc sống của những con người này diễn ra như một chứng bệnh động kinh và chấm dứt bằng những cú đấm chết người tuyệt vọng, nếu họ bỏ những người chết phơi thây trên bãi chiến, vâng có lẽ nếu họ ăn luôn người chết - bởi vì trong các chuyện cổ tích quái đản của thời xưa cũng có nói về điều ấy – nhưng dù sao đi nữa họ cũng phải có một linh cảm về tương lai, một giấc mơ về các vị thần, một điều gì đó như hạt mầm của linh hồn nằm sẵn trong con ngưòi của họ chứ. Nếu không thì cả thế gian hoàn toàn không đẹp đẽ này chỉ là một sự sai lầm và chẳng có ý nghĩa gì cả.
„Thưa nhà vua, xin ngài thứ lỗi“, chàng nói với giọng vuốt ve, „hãy thứ lỗi cho tôi, nếu tôi còn đặt một câu hỏi nữa trước khi tôi lại rời khỏi mảnh đất kỳ lạ này“

„Hãy hỏi đi“, vị vua mời mọc, ông cảm thấy hay hay lạ lạ với chàng trai không quen này; bởi vì trong nhiều điều hắn có vẻ là một bộ óc tinh tế, chín chắn và thông hiểu sâu xa, nhưng trong những điều khác hắn lại giống như một đứa trẻ mà người ta phải nâng niu và không nên xem hẳn nghiêm trang.

„Thưa vị vua xa lạ“, đây là lời của người sứ giả, „ ngài đã làm cho con buồn bã. Ngài hãy xem, từ một xứ khác con đến đây. Thế thì con chim khổng lồ trên mái đền đã có lý mất thôi; nơi xứ của ngài có vô số nỗi khốn cùng đến nỗi con chưa bao giờ có thể nghĩ hết được. Cuộc sống các ngài tựa như một giấc mộng về lo âu sợ hãi, và con không biết các ngài được các vị thần hay ma quỉ trị vì. Thưa nhà vua, ngài hãy xem, ở xứ con có một truyện thần thoại, và trước kia con đã cho đó là chuyện hão huyền và khói mây, chuyện kể rằng xưa kia ở xứ chúng tôi những điều như thế đều phổ biến, những điều như chiến tranh, giết người và tuyệt vọng. Nhưng từ lâu tất cả những chữ ghê rợn này chúng tôi không còn biết đến nữa, chúng tôi chỉ đọc được trong các sách cổ tích xưa và thấy chúng khủng khiếp nhưng cũng khá buồn cười. Hôm nay con đã học và thấy rõ tất cả những điều này là sự thực, là thực tế, con nhìn thấy được ngài và những người của ngài làm điều ấy là đau khổ. Nhưng xin ngài hãy nói cho con hay: các ngài có cảm thấy trong tâm hồn một linh cảm nào cho rằng các ngài không làm điều đúng không? Các ngài không có một hoài vọng về những vị thần trong sáng và vui tươi, về những kẻ lãnh đạo và điều khiển hiểu biết và vui vẻ hay sao? Phải chăng trong giấc ngủ, các ngài không bao giờ nằm mơ về một cuộc sống khác hơn và đẹp đẽ hơn, ở đó không có ai muốn điều mà mọi người không muốn, ở đó lý trí và trật tự chế ngự, ở đó con người gặp gỡ nhau với không gì khác hơn là niềm vui sướng và nhường nhịn nhau? Các người không bao giờ có được ý nghĩ rằng thế giới nên là một khối toàn thể ? Và kính trọng cái toàn thể bằng linh cảm cũng như phục vụ cái toàn thể bằng tình yêu sẽ đem hạnh phúc và an lành hay sao? Các ngài không biết gì về điều mà xứ chúng tôi gọi là âm nhạc và thờ phụng thần linh và hạnh phúc ân huệ hay sao?
Trong lúc nghe những lời này vị vua gục dầu xuống. Khi ông ngẩng đầu lên, gương mặt của ông đã biến đổi, như được viền sáng bằng một ánh mờ của nụ cười, mặc dù đôi mắt ông đẫm đầy nước mắt.
vị vua bảo:
„Chú bé đẹp đẽ kia, ta không biết thật sự ngươi là một đứa bé hay một nhà hiền triết hay có lẽ là một thần linh. Nhưng ta có thể trả lời cho ngươi rằng chúng ta đều biết tất cả các điều mà nhà ngươi vừa nói và mang chúng trong linh hồn. Chúng ta linh cảm được hạnh phúc, tự do, thần thánh. Chúng ta cũng có truyền thuyết của một nhà hiền triết thời tiền sử, người đã nhận ra được tính nhất thể của thế giới như một tương quan hòa hợp giữa các khoảng đất trời. Thế đã đủ cho nhà ngươi chưa? Hãy xem, có thể nhà người là một kẻ phúc ân đến từ thế giới bên kia, hay nhà ngươi có lẽ chính là thượng đế đi nữa, thì trong tim của ngươi không có một hạnh phúc nào, một thế lực nào, một ý chí nào, mà linh cảm và phản ảnh hay bóng dáng của nó lại không sống trong tim của chúng ta.“
Rồi đột nhiên ông ta đứng hẳn lên, và chàng trai hoàn toàn bất ngờ, bởi vì trong khoảnh khắc gương mặt ông vua, như vừa lặn ngụp trong một nụ cười, hiện ra sáng rỡ và trinh bạch như tia nắng bai mai.
Ông hướng về chàng trai dõng dạc:
„Thôi đi đi, hãy đi và để cho chúng ta chiến đấu và giết nhau! Ngươi đã làm ta mềm lòng. Ngươi đã nhắc ta nhớ đến thân mẫu của ta. Ðủ, đủ rồi, chú bé yêu quí và xinh đẹp kia. Hãy đi đi và trốn cho mau trước khi trận đánh mới bắt đầu! Ta sẽ nhớ đến ngươi, khi máu chảy và thành phố bốc lửa và ta sẽ nhớ rằng thế giới là một toàn thể, mà sự điên cuồng, thịnh nộ và dã man của chúng ta không phân rẽ được chúng ta ra khỏi cái toàn thể ấy. Chào vĩnh biệt, và hãy chào hành tinh của nhà ngươi hộ ta, và thần linh nọ mà biểu tượng là trái tim có con dã điểu đang rỉa trái tim! Ta biết trái tim ấy và con chim kia rõ lắm. Và này người bạn tuấn tú từ phương xa kia, hãy ghi nhớ: nếu khi nào ngươi nghĩ đến người bạn của ngươi, đến ông vua khốn khổ đang ở trong trận chiến, nhà ngươi không nên nhớ đến cái người đã ngồi trên đệm và đắm mình trong buồn bã tang thương, mà hãy nhớ đến kẻ đã mĩm cười với nước mắt lưng tròng và máu trên đôi tay.“

Nói xong, không đánh thức người hầu dậy, ông vua tự tay vén tấm màn cửa lều và để cho người trai lạ bước ra khỏi lều. Trong tâm trạng mới, chàng trai băng qua đồng bằng theo hướng cũ trở về và thấy trong ánh nắng chiều nơi chân trời một thành phố lớn đứng trong lửa đỏ, chàng leo qua người chết và tử thi tan rã của ngựa, đi mãi miết cho đến khi trời tối hẳn, chàng đến được bìa rừng núi cũ.
Ở đó con chim lớn vừa hạ cánh từ trên mây xuống, nó mang chàng trai lên trên đôi cánh và họ bay trở về suốt cả đêm, êm ru không tiếng và mềm như lối bay của vịt trời.

Khi chàng trai choàng thức dậy từ một giấc ngủ bất an, chàng thấy mình đang nằm trong ngôi đền nhỏ trong núi, trước đền con ngựa của chàng đang đứng trong cỏ ướt và hí lên chào ngày mới rạng. Nhưng những gì về con chim lớn, về chuyến du hành lên trên hành tinh xa lạ, về ông vua và bãi chiến trường chàng không còn nhớ mảy may. Một bóng đen mơ hồ đọng lại trong tâm hồn của chàng, một niềm đau nhỏ bé thầm kín tựa như một mảnh gai nhọn mong manh,- đau như một nỗi thương hại bơ vơ làm đau -, bóng đen của một ước ao nhỏ bé, chưa toại nguyện, cứ đòi đoạn hành hạ ta trong giấc mơ, cho đến khi cuối cùng ta gặp được người, để bày tỏ được tình yêu, để chia xẻ niềm vui, mà nụ cười của người ấy chính là nỗi ước ao thầm kín bấy lâu.
Người sứ giả leo lên ngựa, phóng đi suốt ngày trường và đến được kinh kỳ vào chầu vua, bấy giờ quả nhiên chàng đúng là người sứ giả mà mọi người chờ đợi ở chàng. Bởi vì nhà vua đã tiếp chàng với lời chào ân huệ qua cử chỉ đưa hai tay chạm vào trán người trẻ tuổi và kêu lên:
„Ðôi mắt của nhà ngươi đã nói với trái tim của ta, và tim ta trả lời „vâng“. Yêu cầu của nhà ngươi đã được thỏa mãn ngay trước khi ta nghe nhà ngươi trình bày.“
Lập tức người sứ giả nhận lãnh một đặc ân của nhà vua cho phép chàng nhận được tất cả các bông hoa trên khắp đất nước mà chàng cần có. Rồi đoàn tùy tùng, rồi đoàn sứ giả, rồi đoàn phục vụ lũ lượt kéo theo, nào ngựa nào xe tháp tùng theo sau, và sau vài ngày khi chàng trai trở về thành phố, đến làng của chàng trên con đường bằng vòng quanh rặng núi, thì mọi người thấy chàng đem theo nào xe nào thùng nào giỏ nào ngựa nào lừa, và cái nào cũng chất đầy những bông hoa đẹp nhất của các vườn cây và nhà ươm giống có rất nhiều trên miền bắc. Hoa đưa đến rất nhiều đủ để làm vòng hoa quàng thân người chết và trang hoàng các ngôi mộ, cũng như đủ để trồng một cây hoa, một khóm cây và một cây ăn quả tưởng niệm cho mỗi người chết theo tục lệ đòi hỏi ở xứ ấy. Nỗi đau khổ mất bạn và con ngựa yêu đã nguôi ngoai và lắng dịu dần trong niềm tưởng nhớ thầm lặng và trong sáng, sau khi chàng đã trang hoàng và chôn cất người và vật cũng như trồng cho họ hai cây bông, hai khóm cây và hai cây ăn quả.

Sau khi chàng trai đã thỏa lòng và hoàn thành bổn phận, lúc ấy hoài niệm về chuyến đi trong đêm nọ bắt đầu xao động khơi dậy trong tâm. Chàng xin mọi người thân cho chàng được một ngày cô đơn, ngồi một ngày một đêm dưới cây suy tưởng và trãi ra trong trí nhớ của mình một cách trung thực và rõ ràng những hình ảnh về điều mà chàng đã thấy ở trên hành tinh nọ. Một ngày sau đó chàng tìm đến vị trưỏng lão xin được nói chuyện riêng và kể cho ông ta nghe tất cả.
Vị trưởng lão lắng nghe, ngồi lâu suy nghĩ, rồi hỏi: „này chú bạn, con đã chính mắt thấy tất cả các điều ấy hay đó chỉ là một giấc mơ?“
Chàng trai trả lởi:
„Con không biết. Nhưng con tin có thể đó là một giấc mơ. Tuy nhiên, xin ngài cho phép con nói thật, hình như đối với con điều ấy chả có một khác biệt nào, nếu câu chuyện ấy xúc tiếp với giác quan của con trong thực tế. Một bóng đen buồn bã vẫn còn lưu lại trong tâm con, và ngay giữa hạnh phúc của cuộc đời ngọn gió lạnh lẽo từ hành tinh kia bơ phờ thổi đến. Bởi thế con xin hỏi ngài, người con kính ngưỡng, con nên làm gì?“
Vị trưởng lão bảo:
„Ngày mai, con hãy đi một lần nữa lên rặng núi và chỗ mà con tìm thấy ngôi đền. Cái biểu tượng của vị thần xem ra kỳ lạ, ta chưa bao giờ nghe nói về nó cả, và rất có thể đó là một vị thần của hành tinh khác. Hoặc có lẽ ngôi đền ấy và vị thần của nó đã xưa lắm rồi, xuất xứ từ những tổ tiên trước nhất của chúng ta hay từ thời xa xưa, lúc mà giữa chúng ta con người còn có vũ khí, kinh hãi và nỗi lo âu tử thần. Con thương mến, hãy đi đến ngôi đền nọ, và hãy đem hoa, mật và các bài ca dâng lên vị thần“
Chàng trai trẻ cám ơn và theo lời khuyên của vị trưởng lão. Chàng lấy một chén đựng thứ mật ngon quí, thứ mật này người ta thường đem dâng cho những khách danh dự trong các buổi lễ ong mật và mang theo cây đàn cổ nguyệt. Trong núi chàng tìm thấy lại chỗ mà trước đó chàng đã hái đóa hoa hình chuông màu xanh, tìm thấy lại con đường vách đá dốc dẫn lên cao trong khu rừng, và nơi mới đây chàng đã dẫn ngựa lần bước. Nhưng chàng không thể tìm ra chỗ của ngôi đền và chính ngôi đền, bệ đá thờ màu đen, những cột lớn bằng gỗ, mái đền và con chim đậu trên mái, ngày hôm nay và cả ngày hôm sau, không người nào biết được để có thể nói về ngôi đền mà chàng tả cho họ.
Bấy giờ chàng trai bèn trở về quê nhà, khi chàng đi ngang qua đền thờ tưởng niệm thân ái, chàng bước vào, dâng chén mật cúng dường, cất tiếng hát theo điệu đàn và tiến cử lên vị thần tưởng niệm thân ái giấc mộng của chàng, ngôi đền và con chim lớn, người nông dân nghèo khổ và những người chết trên bãi sa trường và nhất là về ông vua trong căn lều chiến. Sau đó với tâm hồn nhẹ nhõm giải thoát chàng trở về nhà, treo trong phòng ngủ biểu tượng về sự nhất thể của vũ trụ, ngủ một giấc dài và sâu xả hết những ấn tượng đã trải qua trong ngày. Ngày hôm sau chàng bắt đầu giúp những người láng giềng ra sức khỏa lấp những dấu vết cuối cùng của trận động đất trong vườn và ruộng đồng, vừa làm vừa ca hát.

Muenchen 15. 08. 04 – 22. 08. 04



Tôi lẩn trốn vì biết mình không thể
Mây của trời rồi gió sẽ mang đi!
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Reply to this topicStart new topic
> 1 Người đang đọc chủ đề này (1 Khách và 0 Người Ẩn Danh)
0 Thành Viên:

 

.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 10th May 2024 - 06:09 PMSpring Style